Trang Thông tin điện tử

xã Kim Mỹ - Huyện Kim Sơn

Thứ hai, 23/12/2024
Chào mừng bạn đến Trang thông tin điện tử UBND xã Kim Mỹ

Đề cương tuyên truyền Kỷ niệm 109 năm Ngày sinh cố Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ (09/7/1912-09/7/2021)

Thứ hai, 05/07/2021

I. Khái lược tiểu sử và quá trình hoạt động cách mạng của đồng chí Nguyễn Văn Cừ

Đồng chí Nguyễn Văn Cừ sinh ngày 9 tháng 7 năm 1912, trong một gia đình nhà nho nghèo, có truyền thống khoa bảng ở xã Phù Khê, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh, nay thuộc thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh.

Năm 1927, 15 tuổi học ở Trường Bưởi, đồng chí đã hăng hái tham gia các hoạt động của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên. Năm 1928, đồng chí bị đuổi học vì mật thám Pháp phát hiện đồng chí tham gia hoạt động cách mạng. Cuối năm 1928, đồng chí được tổ chức Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên giới thiệu về hoạt động "vô sản hóa" ở mỏ than Vàng Danh.

Năm 1929, đồng chí Nguyễn Văn Cừ được kết nạp vào tổ chức Đông Dương Cộng sản Đảng; được Đảng phân công làm cán bộ hoạt động chuyên nghiệp. Năm 1930, đồng chí Nguyễn Văn Cừ cùng với đồng chí Nguyễn Đức Cảnh tổ chức thành lập chi bộ Đảng Cộng sản Đông Dương đầu tiên ở Mạo Khê, sau đó phát triển tổ chức cơ sở đảng trên toàn vùng mỏ, thành lập Đặc khu uỷ mỏ, ra tờ báo Than.

Ngày 15/2/1931, trên đường đi công tác Cẩm Phả - Hồng Gai, đồng chí bị thực dân Pháp bắt và đưa về giam ở Nhà tù Hoả Lò. Hội đồng đề hình Hà Nội xử đồng chí án "phát lưu chung thân" và đày ra Côn Đảo.

Năm 1936, do áp lực của các cuộc đấu tranh mạnh mẽ của nhân dân ta và Mặt trận nhân dân Pháp, đồng chí Nguyễn Văn Cừ và một số tù chính trị Côn Đảo được trả tự do. Đồng chí về Hà Nội liên lạc với Đảng, lập ra "Uỷ ban sáng kiến". Tháng 7/1937, đồng chí tham gia thành lập Xứ uỷ Bắc Kỳ, khôi phục các cơ sở đảng ở Bắc Kỳ - Trung Kỳ.

Tại Hội nghị Trung ương mở rộng tháng 9/1937, đồng chí được bầu làm Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương và được cử vào Ban Thường vụ Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương. Hội nghị Trung ương lần thứ 5 (3/1938), đồng chí Nguyễn Văn Cừ được bầu làm Tổng Bí thư của Đảng. Nhằm đấu tranh chống bọn tờrốtxkít và tiến hành cuộc tự phê bình và phê bình trong Đảng, chấn chỉnh những tư tưởng lệch lạc, sai trái, đồng chí Nguyễn Văn Cừ đã viết tác phẩm "Tự chỉ trích" góp phần to lớn vào việc xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức.

Tháng 9/1939, chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, đồng chí Nguyễn Văn Cừ đã chỉ đạo đưa Đảng rút vào hoạt động bí mật và tích cực chuẩn bị cho việc chuyển hướng chiến lược cách mạng.

Tháng 11/1939, trên cương vị Tổng Bí thư của Đảng, đồng chí triệu tập Hội nghị Trung ương lần thứ 6, cùng Trung ương Đảng bàn và ra nghị quyết thành lập Mặt trận thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương, thay cho Mặt trận dân chủ Đông Dương, mở ra thời kỳ mới cho cách mạng Việt Nam - thời kỳ vận động giải phóng dân tộc.

Giữa lúc phong trào cách mạng của dân tộc đang bước vào cao trào mới, thì ngày 18/1/1940, đồng chí Nguyễn Văn Cừ bị địch bắt. Ngày 28/8/1941, đồng chí bị quân thù xử bắn.

Với 29 tuổi, hơn mười ba năm tham gia cách mạng, bảy năm bị giam cầm trong nhà tù đế quốc, hơn hai năm làm Tổng Bí thư của Đảng, hy sinh khi tuổi đời còn rất trẻ, nhưng những cống hiến của đồng chí Nguyễn Văn Cừ đối với Đảng và dân tộc ta là rất to lớn. Cố Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ là một chiến sĩ cộng sản ưu tú, nhà lãnh đạo xuất sắc của Đảng và cách mạng Việt Nam, người có tầm nhìn chiến lược về lý luận xây dựng Đảng, một tấm gương cao đẹp về đạo đức cách mạng.

II. Những cống hiến to lớn của cố Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc

1. Cố Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ - một tấm gương tiêu biểu về tinh thần tự học tập rèn luyện và trưởng thành qua thực tiễn đấu tranh cách mạng

Đồng chí Nguyễn Văn Cừ tham gia hoạt động cách mạng từ rất sớm. Xuất thân từ một học sinh, 15 tuổi với nhiệt huyết của tuổi trẻ, thông qua phong trào đấu tranh yêu nước, đồng chí Nguyễn Văn Cừ đã bắt gặp và giác ngộ chủ nghĩa Mác - Lênin. Thực hiện chủ trương "vô sản hoá" của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên ở vùng mỏ Đông Bắc (từ 1928 - 1930) đồng chí đã hoà mình vào cuộc sống của người lao động, sớm nhận thức về khả năng cách mạng to lớn của giai cấp công nhân Việt Nam. Với tinh thần quyết tâm cách mạng, đồng chí đã tổ chức nhiều cuộc mít tinh kêu gọi công nhân lao động mỏ đứng lên làm cách mạng để giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp. Tờ báo Than do đồng chí Nguyễn Văn Cừ trực tiếp chỉ đạo và là người biên tập chính, với nội dung tuyên truyền chủ nghĩa Mác - Lênin đã được phát hành rộng rãi ở Mạo Khê và vùng mỏ Đông Bắc. Ngay từ những số đầu tiên, tờ báo Than đã động viên, cổ vũ và hướng dẫn quần chúng đứng lên đấu tranh chống chế độ áp bức bất công của thực dân Pháp, ủng hộ phong trào cộng sản và công nhân quốc tế.

Là cán bộ hoạt động cách mạng chuyên nghiệp, đồng chí Nguyễn Văn Cừ có điều kiện đi nhiều nơi, tiếp xúc với nhiều công nhân, lao động nhiều nghề khác nhau, qua đó có dịp phân tích và kịp thời chỉ ra những ưu điểm và uốn nắn những lệch lạc trong công tác vận động công nhân, nhờ đó phong trào cách mạng ở vùng than có bước chuyển biến và phát triển nhanh chóng. Đầu năm 1930, đồng chí đã cùng với đồng chí Nguyễn Đức Cảnh thành lập chi bộ Đảng Cộng sản Đông Dương ở Mạo Khê và chỉ đạo thành lập các đảng bộ ở mỏ Uông Bí, Cửa Ông, Cẩm Phả... Từ một học sinh tiểu tư sản, hoà mình gắn bó với đời sống gian khổ của thợ mỏ, kết hợp với việc tích cực tự rèn luyện và học tập lý luận cách mạng, sau hơn 2 năm hoạt động cách mạng, đông chí Nguyễn Văn Cừ đã trở thành một trong những người đầu tiên xây dựng các chi bộ đảng và Đặc khu ủy đảng ở vùng mỏ, một cán bộ lãnh đạo chủ chốt của phong trào công nhân vùng than Đông Bắc.

Khi bị địch bắt, bị giam cầm tra tấn tại nhà tù Côn Đảo (từ 1931 - 1936), đồng chí Nguyễn Văn Cừ đã cùng với các đồng chí cán bộ trung kiên của Đảng biến nhà tù đế quốc thành trường học cách mạng. Tại nhà tù Côn Đảo, đồng chí đã được nghiên cứu các tác phẩm kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin, như: "Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản", "Hai sách lược của Đảng", "Bệnh ấu trĩ tả khuynh trong phong trào công nhân", "Nguyên lý chủ nghĩa Mác – Lênin".... Thông qua việc trao đổi trực tiếp với các đồng chí bạn tù, kết hợp với thực tiễn hoạt động cách mạng phong phú của mình, đồng chí Nguyễn Văn Cừ đã nhận thức và hiểu sâu sắc nhiều vấn đề lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc. Chính trong những năm tháng bị giam cầm ở Côn Đảo, đồng chí Nguyễn Văn Cừ đã tích lũy, trau dồi về chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc soi rọi vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, rút ra những bài học cách mạng quý báu. Con đường nhận thức biện chứng mà đồng chí Nguyễn Văn Cừ đã trải qua để trở thành nhà lãnh đạo, nhà lý luận trẻ tuổi xuất sắc của Đảng gian khổ, oanh liệt và rất đỗi vẻ vang.

Đồng chí Nguyễn Văn Cừ chưa ra nước ngoài học tập, nghiên cứu về phong trào cộng sản và công nhân thế giới, nhưng tinh thần quốc tế vô sản đã thể hiện rõ nét ngay từ những năm 30 khi trở thành đảng viên cộng sản. Đồng chí Nguyễn Văn Cừ có nhiều bài viết sâu sắc kêu gọi những người cộng sản và các tầng lớp nhân dân lao động Việt Nam ủng hộ cách mạng Trung Quốc, Liên Xô, như: "Giúp Tàu (Trung Quốc) là nhiệm vụ của hết thảy mọi người yêu mến tự do và hòa bình. Giúp Tàu là một bộ phận trong việc phòng thủ Đông Dương" ; ủng hộ Liên Xô vào Hội Quốc liên, vận động giúp cách mạng Trung Quốc kháng Nhật v.v... Những bài viết này thể hiện khả năng khái quát cao, tư duy độc lập và biện chứng về mối quan hệ giữa cách mạng Việt Nam, cách mạng Đông Dương với cách mạng thế giới, những vấn đề cách mạng nóng bỏng trong nước và quốc tế, khẳng định tài năng chính trị của một nhà lãnh đạo xuất sắc của Đảng và dân tộc ta.

2. Cố Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ - người chỉ đạo thay đổi chiến lược cách mạng, tạo ra bước ngoặt quan trọng của cách mạng Việt Nam giai đoạn 1938 - 1942

Đầu tháng 4/1938, Chính phủ cánh hữu do Đalađiê làm Thủ tướng lên cầm quyền ở Pháp, thỏa hiệp với Hitle về vấn đề Tiệp Khắc, nguy cơ bùng nổ cuộc chiến tranh thế giới đến gần. Nhận thấy tình hình quốc tế đang có những chuyển biến bất lợi cho cách mạng Việt Nam và Đông Dương, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ đã sớm đặt vấn đề chuyển hướng chiến lược của Đảng. Đồng chí đã viết một loạt bài đăng trên báo Dân chúng, như: "Chung quanh vấn đề Nhật chiếm Hải Nam"; "Cùng ông Nguyễn Văn Sâm chủ nhiệm báo Tự do"... Trên cơ sở phân tích tình hình thế giới, khu vực và trong nước, đồng chí đã chỉ rõ nguy cơ chiến tranh phát xít ở châu Á và Đông Dương, đồng thời kêu gọi nhân dân đẩy mạnh đấu tranh hơn nữa chống chiến tranh xâm lược của chủ nghĩa phát xít. Để chuẩn bị cho Đảng rút vào hoạt động bí mật, đối phó với tình hình mới, trên cương vị Tổng Bí thư của Đảng, đồng chí đã chỉ đạo cho phát hành cuốn "Công tác bí mật của Đảng" kịp thời gửi tới Đảng bộ các cấp. Đầu tháng 9/1939, đồng chí Nguyễn Văn Cừ trực tiếp triệu tập và chủ trì Hội nghị mở rộng Xứ ủy Bắc kỳ, phổ biến tình hình quốc tế, trong nước và quyết định phải rút ngay số cán bộ hoạt động công khai vào hoạt động bí mật, phân công một số đồng chí cán bộ Xứ ủy và Thành ủy Hà Nội đi xây dựng căn cứ ở các địa bàn chiến lược, chuẩn bị cơ sở cho cuộc đấu tranh vũ trang khi có điều kiện. Những chủ trương đúng đắn và nhạy bén của Đảng ta, đứng đầu là Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ trước những diễn biến mau lẹ của tình thế cách mạng năm 1939 đã giảm bớt tổn thất cho Đảng, góp phần đưa sự nghiệp cách mạng của dân tộc ta tiến lên.

Ngày 6/11/1939, chỉ hai tháng sau khi đại chiến thế giới II bùng nổ, đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ đã triệu tập Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 6, tại Bà Điểm (Hóc Môn, Gia Định). Dưới sự chủ trì của đồng chí, Hội nghị đã phân tích sâu sắc tính chất của chiến tranh thế giới II, vị trí của Đông Dương trong cuộc chiến tranh, những chính sách của đế quốc Pháp, thái độ các giai cấp xã hội và vạch ra đường lối chính trị của cách mạng Việt Nam trước tình hình mới. Hội nghị đã khẳng định: Chiến tranh sẽ gieo rắc đau thương cho nhân loại, nhưng cuối cùng sự nghiệp cách mạng của nhân dân thế giới sẽ chiến thắng chủ nghĩa phát xít. Đồng thời Hội nghị cũng đã thống nhất nhận định: Lúc này ở Việt Nam và Đông Dương, sự thống trị của đế quốc Pháp đã trở thành một chế độ phát xít thuộc địa. Đế quốc Pháp đã thỏa hiệp đầu hàng phát xít Nhật. Do đó, giải phóng dân tộc khỏi ách đế quốc, dù là Pháp hay là Nhật, trở thành nhiệm vụ cấp bách nhất và là mục tiêu chiến lược trước mắt của cách mạng Việt Nam.

Trên cơ sở thống nhất những nhận định vị xác định nhiệm vụ chiến lược trong giai đoạn cách mạng mới, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương 6 (11/1939) đã chủ trương: Để tập trung mọi lực lượng của dân tộc vào chống đế quốc và ách thống trị của phát xít thuộc địa, Đảng sẽ tiến hành thành lập Mặt trận thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương thay cho Mặt trận dân chủ không còn thích hợp nữa. Khẩu hiệu cách mạng ruộng đất lúc này tạm gác lại; chỉ thực hiện chính sách tịch thu ruộng đất của đế quốc và những địa chủ phản bội quyền lợi dân tộc. Khẩu hiệu thành lập chính quyền xô viết công, nông, binh được thay thế bằng khẩu hiệu thành lập chính quyền dân chủ cộng hòa. Để phù hợp với tính chất cuộc đấu tranh cách mạng trong giai đoạn mới, phương pháp cách mạng cũng chuyển từ đấu tranh đòi quyền dân sinh, dân chủ sang đấu tranh trực tiếp đánh đổ chính quyền của đế quốc và tay sai, từ hoạt động hợp pháp và nửa hợp pháp sang hoạt động bí mật và không hợp pháp, chuẩn bị điều kiện để tiến tới khởi nghĩa vũ trang.

III. Học tập một số nguyên tắc và mục tiêu trong tự phê bình và phê bình của cố Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ:

"Chúng ta không bao giờ có thể đổ hết những nguyên nhân thất bại cho việc quân thù đàn áp. Chúng ta phải biết nhìn nhận những khuyết điểm về chủ quan mà chính ta gây ra, chính ta phải hoàn toàn chịu trách nhiệm".

"Tự chỉ trích bônsơvích là để giúp đảng viên tự huấn luyện, để làm tăng uy tín và ảnh hưởng của Đảng, để cho Đảng càng được thống nhất và củng cố, để đưa phong trào phát triển lên, đưa cách mạng tới thắng lợi; chớ không phải đặt cá nhân mình lên trên Đảng, đem ý kiến riêng - dù cho đúng - đối chọi với Đảng, vin vào một vài khuyết điểm mà mạt sát Đảng, phá hoại ảnh hưởng của Đảng, gieo mối hoài nghi, lộn xộn trong quần chúng, gây mầm bè phái chia rẽ trong hàng ngũ Đảng."

"Phải cần làm cho các đảng viên giác ngộ, rõ ràng và đầy đủ trách nhiệm của mình, biết xoay phương hướng trong những hoàn cảnh khó khăn, nghiêm trọng, biết tự chỉ trích đúng và kịp thời những khuyết điểm, sai lầm; đồng thời Đảng phải tìm cách củ soát một cách thiệt sự hơn những hành động của mỗi đảng viên".

"Chiến thắng những xu hướng sai lầm trong hàng ngũ: Xu hướng "tả khuynh", cô độc nó muốn làm cho Đảng co bé, rút hẹp bởi biệt phái, cách xa quần chúng, và xu hướng thỏa hiệp hữu khuynh, lung lay trước những tình hình nghiêm trọng nhãng quên hoặc che lấp sự tuyên truyền chủ nghĩa Mác - Lênin, lăm le rời bỏ những nguyên tắc cách mệnh".

"Thống nhất tư tưởng, thống nhất hành động". "Củng cố hàng ngũ để chóng thực hiện thống nhất các lớp nhân dân".

Nhân dịp này, các cấp ủy Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội, các địa phương tổ chức học tập tấm gương cố Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ - một chiến sĩ cộng sản mẫu mực, nhà lãnh đạo xuất sắc của Đảng, người con ưu tú của dân tộc và của quê hương:

Thứ nhất, tinh thần tự học tập, rèn luyện, tư duy lý luận sáng tạo, nắm bắt sâu sắc thực tiễn đấu tranh cách mạng của dân tộc và phong trào cộng sản quốc tế.

Thứ hai, nhạy bén chính trị, kiên quyết đấu tranh bảo vệ sự trong sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin; đoàn kết rộng rãi các lực lượng vì sự nghiệp độc lập của dân tộc.

Thứ ba, kiên trung, bất khuất trước kẻ thù; chân thành, giản dị, chan hòa, gần gũi với đồng chí, đồng bào.

Bài liên quan
Văn bản mới
Xem thêm
Thống kê truy cập

Lượt truy cập: 99864

Trực tuyến: 27

Hôm nay: 37